Mạn đàm về chiếc bao lì xì và
bàn tay của thiền sư Ma Tuyến
Hoang Phong
Tập quán lì xì của người
Việt chúng ta thực sự bắt nguồn từ một truyền thống lâu đời của Trung Quốc, và không
nhất thiết là chỉ dành riêng cho trẻ con vào dịp Tết mà còn cho cả người lớn
trong các dịp lễ lạc và giao tiếp xã hội quanh năm. Chịu ảnh hưởng văn minh
Trung Quốc từ lâu nên không những ở nước ta mà còn ở nhiều nước châu Á thì tập
quán này cũng rất phổ biến và dường như ngày nay lại càng được thực thi rộng
rãi.
Hai chữ "lì xì"
bắt nguồn từ tiếng Hán là "lì shi" (利市), dịch sang Hán Việt là "lợi thị",
có nghĩa là tốt lành, may mắn, thu được nhiều lợi lộc và "lì shi" lại
cũng còn được gọi là "hồng bao"
(紅包), tức là chiếc bao màu đỏ. "Li shi" hay "lợi thị" là một từ ghép gồm hai
chữ lợi và thị, và nếu tra cứu các quyển tự điển Hán Việt thì tất chúng ta sẽ hiểu
được ý nghĩa của chữ lì xì hay lợi thị là gì.
Chữ "lợi" (利) có nhiều nghĩa:
- thích nghi, thuận lợi, chẳng
hạn như đại cát đại lợi (大吉大利), có nghĩa là thật tốt lành và thuận
lợi.
- Có lợi ích, chẳng hạn như "ích quốc lợi dân" (益國利民), có nghĩa là có ích cho đất nước và có lợi cho người dân.
- tiền lời hay tiền lãi sinh ra từ
tiền vốn, chẳng hạn như lợi thị tam bội (利市三倍), có nghĩa là tiền lãi gia tăng gấp
ba.
- lợi dụng (利用), có nghĩa là mượn dịp hay thừa dịp để tìm kiếm lợi lộc.
Chữ Thị (是) cũng có nhiều nghĩa:
- chính sách, kế hoạch, chẳng hạn như quốc thị (國是), có nghĩa là kế hoạch quốc gia hay chính sách nhà nước.
- thuận tiện, tốt đẹp.
Tóm lại thật rõ ràng lì
xì không phải chỉ là một tập tục trong mấy ngày Tết mà còn là một phương tiện hữu
hiệu hay một sách lược hầu mang lại sự lợi lộc cho tất cả mọi người. Đối với dân
làm ăn sành sỏi thì lì xì là một lợi khí giúp hoạch định các kế hoạch kinh
doanh, họ cân nhắc chiếc "hồng bao" như thế nào cho vừa đủ, không quá
hụt cũng không quá hời, hầu có thể đạt được chỉ tiêu lợi thị tam bội tức là tiền lãi thâu về phải đạt gấp ba tiền vốn.
Thế nhưng trong việc làm ăn thì cũng khó tránh khỏi rủi ro vì có thể sẽ mất cả
chì lẫn chài mà lại không đuợc việc gì. Chỉ đáng buồn cho những gia đình nghèo
khó, vì lì xì là cả là một nỗi khổ tâm và lo âu khi ngày Tết gần kề. Trên đây
chỉ là hai khía cạnh kém sắc thắm của chiếc hồng bao. Nếu nhìn vấn đề này một
cách bao quát hơn thì nào là ma chay, cưới hỏi, công ăn việc làm, giấy tờ, phường
khóm, nhà nước... không biết bao nhiêu chiếc "hồng bao" đã và sẽ được
chuyển tay.
Thật ra tập tục trao đổi
và luân lưu những chiếc "hồng bao" của xã hội còn che giấu những khía
cạnh thật tinh tế mà chúng ta ít khi quan tâm đến. Mỗi khi có một người nào đó
cho tiền vào chiếc "hồng bao" thì ắt không tránh khỏi kèm theo các
xúc cảm của mình. Các xúc cảm ấy có thể là một niềm vui, một sự hãnh diện, nếu
là một người có chức phận và giàu sang, hoặc cũng có thể là một sự tính toán và
cầu mong nếu là những người làm ăn sành sỏi, hoặc nếu những người dân bình dị bị
ép buộc phải… lì xì, thì chắc hẳn cũng khó che dấu được các xúc cảm thù hận,
khinh bỉ và đau buồn gói ghém trong những cái bao đỏ ấy. Người nhận khi mở chiếc
"hồng bao" để lấy những gì trong đó thì cũng sẽ kéo theo những xúc cảm
kèm với chiếc "hồng bao" ấy để mà biến chúng thành những niềm hân
hoan và vui sướng trong lòng mình.
Chìa tay đưa chiếc
"hồng bao" hay đút chiếc "hồng bao" vào túi đều là các động
tác mang tính cách chủ tâm. Theo Phật Giáo thì bất cứ một hành động hay một động
tác chủ tâm nào cũng đều tạo ra nghiệp. Nếu chiếc hồng bao biểu trưng cho một sự
tính toán hay một niềm vui sướng thì nghiệp đưa đến sẽ mang cùng một bản chất với
nó, tức là sự bám víu, tham lam và thèm khát, một thứ nghiệp buộc chặt mình
trong thế giới luân hồi. Nếu chiếc "hồng bao" là một sự oán hận, khinh
bỉ và u buồn thì nghiệp tạo ra sẽ là hận thù, và đến một lúc nào đó nghiệp ấy sẽ
biến thành quả gây ra tác hại cho mình và cho cả người đút chiếc "hồng
bao" vào túi.
Sự luân lưu của những
chiếc "hồng bao" trong cuộc sống có vẻ như là một động cơ thúc đẩy sự
sinh hoạt và tạo ra các điều kiện thuận lợi trong các mối giao tiếp trong xã hội,
thế nhưng thật ra sự luân lưu ấy dù là theo chiều hướng nào, hân hoan, hận thù
hay mưu mô, đều tạo ra những mối dây trói buộc đày đọa con người. Thật ra sự trói
buộc ấy cũng chỉ là sự vận hành tự nhiên của quy luật nguyên nhân hậu quả,
không sơ hở cũng không nhân nhượng một ai cả, chỉ tiếc là không mấy người nhận
thấy được sự vận hành của quy luật thật đơn giản ấy mà thôi.
Cách nay đã khá lâu tôi
có dịp ghé thăm một cô giáo cấp 1. Cô ấy mời tôi ăn bánh trung thu và nói:
"Anh biết không, cứ mỗi dịp Trung Thu thì học trò thay nhau biếu em có đến
vài chục hộp bánh trung thu. Em thì không thích ăn bánh thập cẩm, thế nhưng gần
như hộp nào cũng gồm toàn là thứ bánh ấy, đến độ em phải nhắc khéo với bọn trẻ
con là em chỉ thích bánh nhân hạt sen hay là bánh dẻo". Cầm miếng bánh dẻo
trên tay tôi bâng khuâng và nghĩ ngợi rất nhiều, không biết mẫu bánh tôi đang cầm
là được một gia đình khá giả mua biếu cô giáo, hay là của một gia đình phải chạy
nợ để mua. Thiết nghĩ phàm làm một điều gì - dù chỉ ăn một miếng bánh - người
Phật tử chúng ta cũng nên ý thức đuợc nguyên nhân và hậu quả của nó có thể mang
lại cho mình và cho người khác. Tất cả chúng ta đều trực tiếp hay gián tiếp tập
cho các em tập tục "hồng bao" từ thuở nhỏ, vì thế đôi khi phải nhìn
vào cách hành xử của chính mình mà không nên chỉ biết nhìn vào kẻ khác để chỉ trích
họ là tại sao lại tận dụng quá đáng phương tiện sắc bén của chiếc "hồng
bao".
Suy đi nghĩ lại tất
chúng ta cũng phải thú nhận rằng người Phật Giáo cũng thực thi tập tục trao đổi
ấy rất tích cực, thế nhưng có một sự khác biệt thật căn bản: họ không bao giờ chờ
đợi một sự hồi đáp nào từ bàn tay xòe ra của họ, dù họ có trao những chiếc "hồng
bao" thì đấy không phải là một sự ép buộc mà chỉ là một cách gói ghém thật
kín đáo lòng từ bi của mình mà thôi. Thật vậy bản tính con người là sống tập thể,
không có ai tự sống một mình được, tất cả đều nương tựa vào nhau để cùng tạo ra
xã hội, vì thế truyền thống "hồng bao" gói ghém một chút tương trợ và
tình thương yêu thật hết sức cần thiết cho sự tồn vong của nhân loại. Nhân đây chúng
ta hãy cùng đọc một câu chuyện thiền thật đơn giản liên quan đến cái truyền thống
"hồng bao" ấy.
Câu chuyện được trích
từ một quyển sách tiếng Nhật mang tựa "101
Câu chuyện thiền Zen", góp nhặt một số các công án thiền vào thế kỷ
XIII và thế kỷ XX, và đã được xuất bản ở Nhật năm 1919. Bản dịch đầu tiên sang
tiếng Anh được xuất bản ở Mỹ năm 1940, tức là vào một giai đoạn căng thẳng khởi
đầu Thế Chiến Thứ Hai. Một điều khá thú vị là ít nhất đã có bốn bản Việt dịch của
quyển sách này: Ngô Tằng Giao (2004), Trần Trúc Lâm (2010), Nguyễn Minh (2009),
Trần Đình Hoành (?), và cả bốn bản dịch xuất hiện đồng loạt trong vòng vài năm và
cùng được dựa vào bản dịch tiếng Anh của Paul Reps xuất bản hơn sáu mươi năm
trước đó.
Câu chuyện được trích dẫn
dưới đây là câu chuyện thứ 33 trong sách và mang tựa là "Bàn Tay của thiền sư Ma Tuyến" ("Mokusen' s Hand"). Mokusen Hiki (1846-1920) là một vị
thiền sư thuộc học phái Tào Động và cũng là vị chính thức thừa kế của dòng truyền
thừa này. Kinh sách Hán ngữ dịch âm tên ông là Moxian (魔线), chuyển sang tiếng Hán Việt là Ma Tuyến. Tào Động là một học phái Thiền
của Trung Quốc được Đạo Nguyên (1200-1253) mang về Nhật, khai triển thêm và truyền
bá trong quốc gia này. Năm 1244 Đạo Nguyên xây dựng một ngôi chùa nhỏ toàn bằng
gỗ trên hòn đảo Honshu, miền nam nước Nhật. Chùa mang tên là Eihei-ji, và nhà
sư Ma Tuyến đã trụ trì ngôi chùa này khi xảy ra câu chuyện bàn tay mang tên ông
như sau:
"Thiền sư Ma Tuyến sống trong một ngôi chùa ở thị trấn
Tamba. Một hôm có một đệ tử tâm sự với ông về người vợ quá ư keo kiệt của mình.
Ma Tuyến bèn đích thân tìm đến nhà người này để gặp vợ anh ta. Khi gặp bà này
ông nắm chặt bàn tay của mình lại và đưa ra trước mặt bà này rồi cất lời hỏi như
sau:
- "Nếu như bàn tay của ta cứ nắm
chặt lại như thế này mà không sao mở ra được nữa, thì bà nghĩ thế nào?"
Người phụ nữ khá sửng sốt vì câu hỏi
bất ngờ ấy, vội đáp rằng:
- Nếu thế thì bàn tay của ông bị
khuyết tật rồi!
Vị thiền sư bèn xòe bàn tay ra và lại
hỏi:
- Thế nhưng nếu nó cứ xòe ra như thế
này mà không còn nắm lại được nữa thì nghĩa là gì?
Người đàn bà lại đáp:
- Thế thì nó cũng lại bị khuyết tật
chứ gì nữa!
Vi thiền sư bèn nói với người đàn bà
rằng:
- Vậy thì khi nào bà hiểu được ý
nghĩa sâu xa của những lời mà bà vừa nói, thì tất bà sẽ trở thành một người vợ
xứng đáng.
Nói xong vị thiền sư quay về chùa. Ít
lâu sau người ta thấy người phụ nữ, một mặt rất tích cực giúp chồng bố thí, một
mặt thì biết chi tiêu tiện tặn trong gia đình.
Ngôi chùa Eihei-ji trên đảo
Honshu miển nam nước Nhật (quận Yoshida, tỉnh Fukui). Ngôi chùa này là một di
tích lịch sử, do chính Đạo Nguyên xây dựng vào năm 1244. Nhà sư Ma Tuyến
(1846-1920) thừa kế dòng Tào Động đã trụ trì ngôi chùa này khi xảy ra câu chuyện
"Bàn Tay của thiền sư Ma Tuyến".
Bàn tay của người nội
trợ nếu chỉ biết xòe ra, tiêu xài hoang phí thì tan hoang cửa nhà, thế nhưng nếu
chỉ biết bo bo nắm chặt thì sẽ lại dẫn đến sự nghèo khó và thiếu thốn, nghèo với
mình, với gia đình mình và cả với kẻ khác. Nếu biết xòe bàn tay giúp chồng bố thí
thì sẽ mang lại một niềm hãnh diện và một ý nghĩa nào đó cho cuộc sống lứa đôi.
Thế nhưng trong trường hợp nếu người chồng bê tha, rượu chè, cờ bạc, thì người nội
trợ cũng phải biết nắm chặt bàn tay của mình lại.
Thiền học là một phép
tu tập cao thâm không phải là chỉ để giải quyết những chuyện đạo đức thường
tình của thế tục. Câu chuyện tất phải hàm chứa một ý nghĩa sâu xa hơn. Bàn tay
nắm lại là trở về với chính mình, tìm hiểu mình, giúp mình trở nên phong phú
hơn, trước khi ngửa bàn tay ra để chia sẻ sự phong phú ấy với kẻ khác. Trong
kinh Pháp Cú có một câu như sau (câu 354):
Sabba danam Dhamma danam jinãti
Hiến dâng Sự Thật vượt cao hơn những hiến dâng khác
Hiến dâng Sự Thật vượt cao hơn những hiến dâng khác
Nhằm thay lời kết, tôi
cũng xin mạn phép được kể thêm ra đây một câu chuyện nhỏ trong một chuyến viếng
thăm Tích Lan cách nay hơn 30 năm. Một hôm trên đường từ cao nguyên thánh địa Candy
đổ xuống vùng bờ biển phía nam, xe dừng lại ở một thị trấn nhỏ để nghỉ, tôi tản
bộ quanh đó và chợt thấy một túp lều lụp xụp nằm chênh vênh giữa một khu đất
hoang, bên trong bày bán các thứ lưu niệm cho du khách. Tôi bước vào xem thì một
phụ nữ trung niên vụt đứng bật dậy từ một chiếc ghế đặt trong một góc tối của
gian hàng, mừng rỡ mời mọc chỉ trỏ huyên thiên hết món hàng này đến món hàng khác.
Tôi bước vào thực sự chính là vì tò mò hơn là có ý định mua sắm nên im lặng lắng
nghe và liếc mắt nhìn các thứ nữ trang đủ loại và các vật kỷ niệm linh tinh bày
trong một tủ kính cùng các pho tượng Ấn Giáo và Phật Giáo xếp ngay ngắn trên một
chiếc bàn nhỏ. Bỗng dưng tôi chợt thấy một pho tượng Phật bằng gỗ lớn nhất, trong
tư thế đứng thường thấy ở các nước theo Phật Giáo Theravada. Nghĩ bụng biết đâu
pho tượng ấy cũng có thể là một kỷ niệm hay hay để mang về từ xứ Phật, tôi bèn
đánh tiếng hỏi giá, người phụ nữ đưa ra một cái giá khá cao. Đã sống quen với
những người dân bản xứ tính tình vốn chất phát, lương thiện không có ý nói
thách để "bóc lột" du khách, tôi biết rằng đây là đúng giá của
pho tượng, nhưng cũng còn phân vân và do dự trong lúc người bán hàng im lặng
nhìn tôi có vẻ lo lắng và chờ đợi. Bỗng nhiên dường như có một sức mạnh dậy lên
trong nội tâm thúc đẩy tôi phải "thỉnh" pho tượng ấy. Thế là việc mua
bán được nhanh chóng giải quyết và người bán hàng quấn vội pho tượng trong một tờ
báo cũ và đưa cho tôi. Rời khỏi cửa hàng độ mười thước thì dường như có một sức
mạnh khác khiến tôi ngoảnh đầu lại. Người phụ nữ còn đứng ở cửa lều nhìn theo với
đôi mắt không che dấu được nét vừa ngạc nhiên vừa sung sướng, như thầm cám ơn vừa
được một sự may mắn bất ngờ xảy đến.
Pho tượng không phải
là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt hảo, nhưng nhất định là được tạc bằng bàn tay và
tâm hồn của một nghệ nhân trong vùng, và khúc gỗ cũng là từ một gốc cây mọc lên
từ mảnh đất Tích lan. Cánh tay trái của pho tượng duỗi thẳng và bàn tay để ngửa,
cánh tay phải co lại và bàn tay thì đưa ra phía trước, đầu gối chân trái hơi co
lại. Thời bấy giờ tôi cũng chưa hiểu hết ý nghĩa của các thủ ấn trên một pho tượng
và chỉ mãi về sau này tôi mới biết rằng bàn tay trái để ngửa biểu trưng cho sự
bố thí, và bàn tay phải đưa ra phía trước biểu trưng cho sự che chở, ngón cái
và ngón trỏ của bàn tay này chạm vào nhau biểu trưng cho sự thuyết giảng, chân
trái hơi co lại biểu trưng cho sự đi tới, có nghĩa là pho tượng không đứng yên
một chỗ.
Cho đến nay thỉnh thoảng
tôi vẫn thường thắp một nến hương khi đứng trước pho tượng này. Với người phụ nữ
bán hàng ở Tích Lan ngày nào thì món tiền lời mang lại từ pho tượng có thể cũng
chỉ đủ để mua được thêm một món ngon cho cả gia đình trong một bữa ăn, nhưng đối
với tôi thì pho tượng này và cái kỷ niệm hôm ấy lại là một sự thừa hưởng to lớn
nhất và cao quý nhất về phần mình. Đôi mắt sung sướng của người phụ nữ khắc khổ
ấy vẫn còn ám ảnh mãi trong trí tôi khi viết những dòng chữ này, và mỗi khi thắp
một nén hương thì đôi bàn tay để ngửa của pho tượng đều nhắc nhở tôi về bổn phận
của mình, là luôn phải cố gắng làm được những gì dù thật bé nhỏ để làm đẹp cuộc
đời trong khoảng thời gian ngắn ngủi của mình trên cõi đời này.
(Tượng gỗ-Tích Lan, chiều cao 60cm)
Khó có ai nghèo hơn Đức
Phật được. Ngài đi chân đất, trên người chỉ có hai chiếc áo cà-sa thay đổi,
khâu bằng những mảnh vải vụn nhặt được ở vệ đường hay trong các bãi tha ma, và trên
tay chỉ có một chiếc bình bát để khất thực. Thế nhưng hai bàn tay của Ngài lúc
nào cũng để ngửa là mang đến cho chúng ta những gì? Món quà quý giá nhất mà Ngài
đã ban cho chúng ta là sự thật. Sự Thật của cả một Con Đường.
Bures-Sur-Yvette,
02.01.2015
Hoang
Phong
No comments:
Post a Comment