●
Cảm Nghĩ về
Ý Nghĩa của Vô Thường
Nhân Mùa Vu Lan 2555 (Hoang Phong)
Như
những vì sao, những con ruồi đang bay hay ánh lửa của một ngọn đèn dầu,
Như
một ảo giác ma thuật, một giọt sương mai hay một bọt bong bóng,
Một
giấc mơ, một tia chớp hay một áng mây bay,
Đấy
là cách phải nhìn vào mọi hiện tượng tạo tác từ những điều kiện trói buộc.
Lời
Phật dạy
Kinh
Kim Cương
(Vajracchedika prajnaparamita-sutra)
Thiền sư Đạo Nguyên
(1200-1252) là một trong những nhà tư tưởng lớn nhất của nước Nhật. Mồ côi cha từ
năm hai tuổi, đến năm bảy tuổi thì mẹ lại mất. Khi nhìn thấy xác mẹ được đưa
lên giàn hỏa ông đã khóc, thế nhưng có thể là ông đã không khóc như một đứa bé.
Nhìn thân xác mẹ cháy trong lửa đỏ và những đám khói bốc lên, có lẽ ông đã hình
dung ra cho mình một con đường. Được một người chú đem về nuôi, thế nhưng năm
mười hai tuổi thì ông bỏ nhà trốn vào vùng núi Hiei đi tìm một người chú khác
là một nhà sư sống trong vùng này, để xin được vào chùa.
Trong Đại Bát Niết Bàn
Kinh (Mahaparinirvana-sutra) có một
câu như sau: "Trong số tất cả các dấu chân, chỉ có dấu chân voi là to lớn
nhất. Trong số tất cả những thứ suy tư, chỉ có sự suy tư về vô thường là quan
trọng nhất". Tất cả mọi sự vật đều phù du. Tất cả các thứ cấu hợp đều tan
rã. Tất cả những gì sinh ra đều sẽ đi đến cái chết, và cái chết thì cũng chỉ là
một sự chuyển hóa trong khung cảnh của vô thường.
Kinh sách thường nêu lên
bốn dấu ấn (caturlaksana) căn bản của
toàn bộ giáo huấn Phật Giáo, đấy là: tất cả mọi hiện tượng cấu hợp đều vô thường,
tất cả những gì hư cấu đều khổ đau, tất cả mọi hiện tượng đều không có cái ngã,
niết-bàn là an bình. Dấu ấn thứ nhất là vô thường và đấy cũng chính là cái nhìn
của Phật Giáo vào thế giới. Cái nhìn ấy giúp chúng ta nhận ra sự chuyển động
thường xuyên và cùng khắp của mọi hiện tượng trong thế giới, và thật ra thì thế
giới cũng chỉ gồm toàn là hiện tượng. Mọi hiện tượng đều xô đẩy nhau, níu kéo
nhau để cùng chuyển động và xoay vần trong vòng sinh diệt.
Quá trình chuyển động, hủy
hoại và sinh thành đó của mọi hiện tượng thường xuyên tiếp diễn bên ngoài thế
giới và cả bên trong tâm thức của mỗi con người. Sáng sớm mở cửa nhìn ra ngoài
trời, mây vẫn bay, chim vẫn hót, bước ra đường, phố chợ vẫn ồn ào. Thế giới dường
như vẫn còn nguyên, vẫn giống như ngày hôm qua. Thế nhưng thật ra thì mỗi chúng
ta đã lật quyển nhật ký của đời mình sang một trang mới, và pho sách lịch sử khổng
lồ của vũ trụ cũng đã sang trang. Một đêm dài hay cả một kiếp người cũng chỉ
như một dấu phẩy hay một dấu chấm trên dòng chữ bất tận của vô thường.
Ra đường trông thấy một
cô gái thật đẹp, thế nhưng bước thêm vài bước nữa thì chúng ta cũng có thể bắt
gặp một bà lão lưng còm, da nhăn và tóc bạc. Vô thường đôi khi thật lộ liễu
nhưng lắm khi cũng rất kín đáo, hay ít ra cũng vượt khỏi sự suy nghĩ thường
tình của chúng ta. Phật Giáo phân chia vô thường làm hai thể loại khác nhau: vô
thường thô thiển và vô thường tinh tế. Vô thường thô thiển là đôi má nhăn nheo
trên gương mặt của một bà lão, là tiếng nổ lách tách của những thanh củi đang
cháy trên thân xác người mẹ của Đạo Nguyên, hay những đám khói đen bốc lên từ
giàn hỏa. Vô thường thô thiển cũng có thể rất bình dị và yên lặng như một bọt
bong bóng ở thềm sân vào một buổi sáng trời mưa.
Vô thường tinh tế thì giống
như một vì sao giữa trời. Hình ảnh và vị trí của ngôi sao Bắc Đẩu mà chúng ta
trông thấy hôm nay là hình ảnh và vị trí của nó cách đây đã 430 năm ánh sáng.
Vô thường tinh tế cũng là con ruồi đang vờn bay trước mặt, một giấc mơ đêm qua,
một thoáng xúc cảm trong tim hay một niềm hạnh phúc trong lòng. Cái vô thường
tinh tế cũng là những biến đổi trong từng đơn vị của tri thức trên dòng chảy của
nó. Mỗi đơn vị vi tế ấy tiếp nhận các vết hằn đủ loại của nghiệp để nhào nặn
chúng, tiêu hóa chúng và để chuyển sang cho một đơn vị khác. Những đơn vị ấy của
dòng tri thức nối tiếp nhau để đưa chúng ta phiêu du trong giấc mơ đêm qua và
trong những giấc mơ khác vào những đêm hôm trước và cả trong cơn lốc của thế giới
hiện tượng đang diễn biến chung quanh chúng ta hôm nay.
Riêng vô thường hay là dấu
ấn thứ nhất trong số bốn dấu ấn của giáo huấn Phật Giáo còn được phân chia
thành bốn dấu ấn thứ yếu là: tất cả những gì kết hợp sẽ xa lìa, tất cả những gì
sinh ra đều sẽ chết, tất cả những gì được kiến tạo sẽ sụp đổ, tất cả những gì kết
hợp rồi sẽ tan rã. Tất cả bốn dấu ấn này đều là những nguyên nhân cội rễ mang lại
khổ đau. Vì thế có thể bảo rằng vô thường chính là khổ đau, và nếu vô thường là
bản chất của mọi hiện tượng thì khổ đau cũng sẽ cùng với mọi hiện tượng và cả
vô thường bàng bạc và chuyển động trong thế giới, trong từng đơn vị vi tế của
dòng tri thức cho đến từng tế bào và cả trong tâm thức của mỗi con người.
Khổ đau lại được kinh
sách chia làm ba thể loại: khổ đau của khổ
đau (dukkha dukkha), khổ đau vì vô thường (viparinama dukkhata) và khổ đau liên quan đến thể dạng trói buộc của
sự hiện hữu (samskaradukkhata). Khổ đau của khổ đau là những khổ đau lộ
liễu nhất và thô thiển nhất: sinh lão bệnh tử và phải kết hợp với những gì mà
mình không muốn. Khổ đau tinh tế nhất và khó nhận thấy nhất là khổ đau của sự hiện hữu, đấy là khổ đau
vì phải hình thành trong thể dạng trói buộc tạo ra bởi tác động của nghiệp, một
hình thức lo âu mang tính cách hiện sinh hay là một sự bất toại nguyện sâu xa,
thường xuyên và ẩn kín về sự hiện hữu của chính mình trong thế giới luân hồi (samsara), nói một cách cụ thể hơn thì đấy
là cái khổ đau của sự biến động thường xuyên của năm thứ cấu hợp còn gọi là ngũ
uẩn tạo ra một cá thể.
Khổ đau vì vô thường được xếp vào thể loại thứ hai tức là nằm vào
giữa hai thể loại trên đây, đấy là: phải xa lìa những gì mà mình yêu thích và
không chiếm hữu hay thực hiện được những gì mà mình thèm muốn. Chúng ta muốn được
trẻ mãi, muốn giữ mãi khả năng tinh thần cũng như sự linh hoạt của thể xác, muốn
những người thân sống mãi và lúc nào cũng yêu thương mình. Thế nhưng tất cả đều
sẽ ra đi, tất cả đều xa lìa, tất cả đều đổ vỡ. Khi ôm hôn một đứa bé hay ẳm một
hài nhi vào lòng và đồng thời nếu chúng ta cũng ý thức được rằng rồi đây chúng
cũng sẽ phải đau yếu và già nua thì chúng ta lại càng cảm thấy yêu thương chúng
hơn và siết chặt chúng hơn vào lòng mình. Khổ
đau của vô thường không lộ liễu như khổ
đau của khổ đau thế nhưng nó cũng không đến nỗi quá khó để nắm bắt như khổ đau của sự hiện hữu. Tuy nhiên không
mấy khi chúng ta ý thức được những thứ khổ đau ấy một cách thật minh bạch, đấy
chẳng qua là vì thông thường của chúng ta không chấp nhận hoặc không nhìn thẳng
vào mặt loại khổ đau này.
Khổ đau của khổ đau là những gì không lẫn tránh được, thật vậy nào
chúng ta có tránh khỏi được sinh, lão, bệnh, tử và những gì mà mình không thích
đâu. Chúng ta chỉ biết tìm cách làm ngơ hoặc nhẫn nhục chịu đựng những thứ khổ
đau ấy. Do đó khổ đau của khổ đau mang tính cách "thụ động" một cách
khá rõ rệt. Đối với khổ đau của sự hiện hữu
cũng thế, chúng ta không thể chối bỏ ngũ uẩn của mình được, không thể trút bỏ dễ
dàng những lo buồn và ray rứt trong tâm thức mình. Những khổ đau ấy mang tính tự
tại nơi chính sự hiện hữu của chúng ta, vì thế nó cũng là những gì rất "thụ
động" mà chúng ta phải gánh chịu.
Trái lại khổ đau vì vô thường là thứ khổ đau khuấy
động nhất, nguy hiểm nhất vì chính những thứ khổ đau ấy đã tạo ra mọi sự phức tạp
và khó khăn cho toàn thể xã hội con người. Tại sao lại như thế? Bởi vì con người
luôn tìm cách đương đầu với vô thường, không chấp nhận xa lìa những gì mình yêu
thích và phải chiếm hữu cho bằng được những gì mình ham muốn. Con người luôn
tìm cách phấn đấu dưới mọi hình thức để chống lại vô thường, thế nhưng sự chống
chỏi ấy chỉ mang lại tuyệt vọng mà thôi.
Nếu con người tỏ ra cam
phận và nhẫn nhục trước khổ đau của khổ
đau và khổ đau vì sự hiện hữu thì
lại phản ứng một cách rất hăng say và tích cực trong việc đương đầu với vô thường
trên mọi lãnh vực. Đây cũng là mối quan tâm và âu lo chủ yếu nhất trong mọi
sinh hoạt của con người, và cũng là nguyên nhân cội rễ sâu kín nhất mang lại khổ
đau cho họ.
Đang dọn bàn ăn ta thấy
một con ruồi bay trước mặt, ta bèn cầm ngay một chiếc quạt và rình rập nó, chờ
lúc nó đậu xuống thành bàn thì đập bẹp nó để bảo vệ lấy cái vô thường của chính
mình. Vào một đêm trăng sao vằng vặc, thay vì thả hồn mình vào vũ trụ để hòa nhập
với vô thường và sự vận hành của các vì tinh tú, thì ta lại cầu khẩn đủ mọi thứ,
chẳng hạn như cầu xin tình yêu của một người nào đó đối với mình luôn được bền
vững, và quên mất rằng các vì sao mà mình trông thấy khi ánh sáng của nó đến được
địa cầu thì một số cũng đã nổ tung và biến mất từ lâu rồi. Một buổi sáng trời
mưa, khi trông thấy những bọt bong bóng ngoài sân thì thay vì liên tưởng đến
cái mong manh của kiếp nhân sinh và nghĩ rằng mình sẽ có một buổi sáng thanh thản
để ngắm nhìn những giọt mưa vỡ trên thềm cửa để tìm về với chính mình, thì lại
càu nhàu oán trách nếu trời cứ mưa như thế này thì làm sao mà đi dạo phố được!
Những gì vừa nêu trên
tuy thật bình dị và tầm thường thế nhưng chúng đã phản ảnh một cách vô cùng kín
đáo sự nắm bắt và bám víu vào "cái tôi" và cái "của tôi" mà
vị đại sư Buddhadasa từng thuyết giảng. Khi nghe nói đến "cái tôi"
hay cái "của tôi" thì phản ứng của chúng ta là nghĩ ngay đến những gì
thật quan trọng và nguy hiểm, thế nhưng thực ra thì "cái tôi" và cái
"của tôi" ấy là những cảm tính tàng ẩn bên trong những hành động thường
nhật thật nhỏ nhặt và bình dị của mình nhằm để chống lại vô thường.
Chúng ta quên rất nhanh
một giấc mơ đêm qua. Thật thế không biết bao nhiêu chuyện còn đang chờ đợi mình
vào ngày hôm nay. Chỉ toàn là bận rộn. Thế nhưng chúng ta cũng quên rằng tất cả
những thứ bận rộn ấy lại cũng chỉ là một giấc mơ. Sự khác biệt giữa một giấc mơ
và những thứ bận rộn mà chúng ta gọi là hiện thực thì cũng giản dị thôi. Trong
giấc mơ chỉ có phần tri thức vẫn tiếp tục sinh hoạt, ngũ giác "ngủ
yên" không tác động hoặc gần như không tác động đến sự vận hành đó của tri
thức. Dòng tri thức không bao giờ ngưng nghỉ kể cả trong giấc ngủ hay sau khi
chết, những gì tích tụ và lưu giữ trên dòng tri thức luôn tương tác với nhau
qua một quá trình biến đổi liên tục. Trong giấc ngủ thì tâm thức được thả lỏng
vì không bị những sự cảm nhận của ngũ giác tấn công nó, dòng tri thức nhờ đó sẽ
làm hiện ra trong tâm thức những hậu quả phát sinh từ quá trình tương tác của
những gì mà nó ghi nhận và lưu giữ được. Có những giấc mơ thật đẹp, thế nhưng
cũng có những giấc mơ hãi hùng, tất cả đều phản ảnh những gì mà dòng tri thức
đã tồn lưu, nếu nói theo kinh sách thì đấy là những vết hằn của nghiệp được ghi
đậm trên dòng tri thức. Chúng hiện lên trong giấc mơ như những "tiền vị"
của khổ đau mà chúng ta sẽ nếm được một cách thật sự bằng ngũ giác trong những
bối cảnh thích nghi vào một thời điểm nào đó sau này.
Thật ra thì lúc nào
chúng ta cũng sống trong một giấc mơ triền miên mà thôi, có lúc chỉ có dòng tri
thức hoạt động làm hiện ra những giấc mơ trong khi ngủ, có lúc, chẳng hạn như
khi đang thức, thì ngũ giác chen vào để khuấy động dòng tri thức đó, tấn công
nó và tạo ra một trận chiến thật hỗn loạn. Những lúc mà trận chiến ấy đang bùng
lên và tiếp diễn thì chúng ta gọi đấy là hiện thực. Những người hành thiền thường
bảo rằng khi họ tréo chân ngồi xuống trong yên lặng thì đấy là cách giúp họ dẹp
yên cuộc chiến ấy.
Bảy tuổi đầu khi nhìn
xác mẹ trên giàn hỏa và những đám khói bốc lên thì cuộc chiến ấy cũng đã bùng
lên thật mãnh liệt trong lòng cậu bé Eihei, một cuộc chiến chống lại với vô thường.
Năm mười hai tuổi thì cậu bé đã hiểu được phải làm thế nào để chiến thắng và dẹp
yên cuộc chiến ấy. Cậu bé Eihei sau này chính là vị đại thiền sư Đạo Nguyên.
Mùa Vu Lan 2555
Bures-Sur-Yvette,
02.09.12
Hoang Phong
Tất cả Sơn Hà Đại Địa, đến thân mạng tứ loài hiện hữu ở thế giới thì đều THƯỜNG HẰNG , .
ReplyDeleteThường hằng nhưng di chuyển - hợp -tan - tan - hợp, sanh hóa - hóa sanh không ngừng nghỉ ...
Khi thọ thân vào một pháp giới : như thân người thì chịu quy chế giới hạn tuổi thọ con người, cho đến các loài động vật hay thực vật,, đều mỗi mỗi có từng đặc tánh, chủng tánh và giới hạn của từng loài .
Khi thọ thân một loài nào thì trí tuệ bị giới hạn do tho chủng tánh chất của loài ấy, rất khó thoát sanh vì tướng hình thọ sanh .
Như con người đi bằng hai chân, có loài đi bốn chân, có loài bò sát, có loài sống dưới nước, loài trên cạn ...
Con người trong một kiếp, chỉ biết ngay kiếp hiện tại, có ta tức có thân người, có cái của ta bao gồm nhiều phương diện : quyến thuộc, họ hàng, bằng hữu...tài sản ..
Sự KHỔ ĐAU - từ ngoại cảnh đến nội tâm đều tác động vào tâm thức, tiêu biểu có tám nạn khổ :
Sinh khổ , tử khổ, bệnh khổ, lão khổ, khổ khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ và oán tằng hội khổ.
Thân vốn giả hợp, thức thời là nguồn mê, do thọ thân thời liền có chấp . Chấp là đứng yên ! Là ngăn ngại, là cô đọng, là gìn giữ, nắm bắt ..từ quan niệm đến vật chất sở hữu, tâm luôn bị thức chuyển theo sắc trần từng cơn, từng hồi.. có khi vừa ý, có lúc không vừa lòng.. sinh ra nạn khổ .
......................................
Do chỗ chấp ấy nên phải quán VÔ THƯỜNG !
Thế gian là tương đối ! Có sinh ắt có tử, có hợp ắt đến lúc phải tan, có thương thì cũng có lúc ghét, có may lại có rủi, lúc vui khi lại buồn, có ngày thì có đêm, có giờ làm việc thì phải có giờ nghỉ ngơi ... tất cả là tương đối .
Nếu sinh ở xứ văn minh thì tiến bộ, sinh vào các bộ tộc thì đời sống lại gần với thiên nhiên và tánh chất hợp với hoang dã.. đó cũng do nghiệp đồng hợp thọ sanh thì phải thọ chủng ..
Khi biết được tánh chất cấu thành thọ sinh, thọ tử, thọ chủng nghiệp .. của mỗi mỗi .. như thế thì phải giải Tâm đọng vọng luôn theo thức chuyển - do lục căn hợp với lục trần mà tác tạo - thiện hay ác cũng đều là Nghiệp , do đó mới hình thành các cõi hiền lành hay các nơi khổ nạn, tất cả đều do tâm thức lầm nhận mà ra cớ sự .
Khi biết được cái thân - có sinh thì phải có tử - tạm gọi là Vô thường !
thì mới có khái niệm nhận định đến những liên hệ từ tinh thần đến vật chất xoay quanh hoàn cảnh - chính là cái thân người hiện hữu !
Cái thân nghười hiện hữu sống cái sống luôn bị chi phối bởi ngoại cảnh - sắc trần , nên tâm thức chập chờn tối sáng, khi không nhận được như thế thì luôn bị vấn nạn khổ rối bời !
Khi chưa nhận ra được cái rối bời thì "cái ta" thật khổ ! Mà "cái ta" ây thật là "vô thường", vì nó sanh diệt từng hồi , diễn tiến từng cơn theo tâm thức đọng vọng trước vạn cảnh xoay quanh, tức là vạn pháp di chuyển .
Con người ngỡ "cái ta" ấy là mình, nên chấp vào đó mà vấp nạn khổ .
Bằng tỏ thấy cái chập chờn ấy luôn di chuyển từng cơn, từng hồi, tạm gọi đó là vô thường ,
biết được như thế thì mới lần nhiếp tâm được .