Bản-Thể-của-Phật
Daisetz Teitaro Suzuki
(Hoang Phong chuyển ngữ)
Lời giới thiệu của người dịch:
Bản-thể-của-Phật còn gọi
là Như Lai Tạng, Phật Tính, Pháp Giới, Chân Như... (tiếng Phạn là
Tathagatagarbha), là một khái niệm quan trọng của Đại Thừa Phật Giáo. Tathagatagarbha
được ghép từ hai chữ Tathagata và garbha: Tathagata có nghĩa là như thế, Đức Phật
thường tự xưng mình chỉ là như thế, hiện ra nơi đây là như thế, dịch ra tiếng
Hán là Như Lai; chữ garbha có nghĩa từ chương là "nguyên nhân" hay "bên
trong" (của một thứ gì đó)..., tiếng Hán dịch là chủng tử. Vậy Tathagatagharba
hay Bản-thể-của-Phật mang một ý nghĩa như thế nào trong Phật Giáo?
Dưới đây là một bài viết
ngắn của thiền sư Daisetz Teitaro Suzuki (1870-1966) giải thích về Bản-thể-của-Phật.
Giới thiệu dông dài về D.T. Suzuki có lẽ cũng bằng thừa, bởi vì hầu hết những ai
đã từng dày công học Phật cũng đều biết đến ông, người đã mang thiền học Zen vào
thế giới Tây Phuơng trong tiền bán thế kỷ XX. Bài viết này được tìm thấy trong
tập san France-Asie, số đặc biệt với chủ đề Phật Giáo, được phát hành tại
Sài-gòn năm 1959. Số đặc biệt này đã góp nhặt các bài viết của một số các học
giả Phật Giáo lỗi lạc nhất thế giới vào thời bấy giờ. Số báo này được tái bản tại
Pháp lần thứ nhất năm 1987 và lần thứ hai năm 2008. Gọi là một số báo đặc biệt
thế nhưng thật ra đây lại là một quyển sách đồ sộ mang tựa đề là "Présence
du Bouddhisme" ("Sự Hiện Diện của Phật Giáo"). Lần tái bản thứ
hai chỉ giữ lại phần giáo lý thế mà cũng đã dày gần 600 trang chữ nhỏ.
Người dịch xin mạn phép
ghép thêm một vài ghi chú nhỏ với hy vọng có thể giúp người đọc dễ theo dõi bản
gốc hơn. Các lời ghi chú này được trình bày bằng chữ nghiêng và đặt trong hai dấu
ngoặc.
Bìa quyển sách "Sự
Hiện Diện của Phật Giáo"
(Hình pho tượng Phật Nằm ở Pagu, Miến Đìện, thế kỷ thứ
X,
Xin lưu ý bóng dáng bé tí của một nhà sư ngồi bên dưới
để so sánh với kích thước khổng lồ của pho tượng.
Tuy Đức Phật đã tịch diệt hơn hai mươi lăm thế kỷ, thế
nhưng sự hiện diện của Ngài luôn vẫn còn đó và hiện ra thật to lớn trước mặt
nhà sư nhỏ bé cùng tất cả chúng ta hôm nay, và đấy cũng là ý nghĩa của tấm ảnh
bìa quyển sách)
*****
Nếu quý vị yêu cầu tôi giải thích thế nào là "biến-cố-Ngộ"
(satori-évenement
/ event-satori / Satori là tiếng Nhật và cũng là một thuật ngữ đặc thù của thiền
học Zen. Chữ Satori có thể tạm dịch là "Ngộ",
sự "tỉnh giác", sự "quán thấy sâu xa" hay sự nhận thức được
"Bản-thể-của-Phật") và đồng thời cũng muốn biết thêm "thể-dạng-Ngộ"
(satori-état /
satori-state) và "biến-cố-Ngộ" khác nhau như thế nào, thì
tôi sẽ xin giải thích với quý vị như thế này: toàn thể mọi người trong chúng ta,
không ngoại trừ một ai, kể cả các chúng sinh hàm chứa tri thức và giác cảm, tất
cả đều ở trong thể dạng Ngộ. Tất cả chúng ta đều ở trong thể dạng đó, thế nhưng
chúng ta không ý thức được sự kiện này mà thôi. Chúng ta nào có để ý đến bầu không
khí bao bọc chung quanh địa cầu; chỉ khi nào gió thổi khiến cho không khí chuyển
động thì khi đó chúng ta mới ý thức được sự hiện diện của nó. Sở dĩ
chúng ta không hề nghĩ đến sự hiện diện của không khí là vì trước đây nó bất động
và ở trong thể dạng ngưng nghỉ (chúng ta luôn ở trong Hiện Thực tức là thể-dạng-Ngộ, thế
nhưng chúng ta không hề ý thức được sự kiện hay thể dạng đó. Phải nhờ vào một
biến cố nào đó xảy ra thì khi ấy chúng ta mới ý thức được là mình đang "sống"
trong Hiện Thực). Dòng luân lưu hay sự chuyển động ấy, nếu tôi có thể
nói như thế, chính là "biến-cố-Ngộ". Khi tất cả mọi sự đều ngưng nghỉ
(đình chỉ, không
chuyển động) thì chúng ta sẽ ở trong thể dạng Ngộ (thế nhưng chúng ta
lại không ý thức được sự kiện đó). Chỉ khi nào có một chuyển động tâm
thần đặc biệt xảy ra thì khi đó "biến-cố-Ngộ" mới có thể phát sinh.
Biến cố ấy tất nhiên không phải là một biến cố thông thường. Nó chỉ xảy đến với
một người nào đó, trong một bối cảnh nào đó, và phải cần đến một sự chuẩn bị từ
trước (phải tu tập
và phát huy sự chú tâm cần thiết).
Chúng
ta hãy cứ nhìn vào tấm gương của Đức Phật. Ngài từ bỏ lạc thú phàm tục, tìm vào
rừng để suy nghiệm triết học dưới sự chỉ dạy của các vị thầy uyên bác nhất thời
bấy giờ. Thế nhưng những gì Đức Phật nghiền ngẫm bằng cách dựa vào lý trí thì hoàn
toàn chỉ mang tính cách trí thức. Sự tìm tòi đó không hề giúp Ngài quán thấy được
bản chất của Hiện Thực. Vì vậy Ngài không thể nào tin tưởng hoàn toàn vào các phương
pháp biện luận triết học. Thế là Ngài lại phải trở vào rừng thêm một lần nữa, và
mục đích lần này là để luyện tập bằng cách hành xác. Có thể Ngài đã suy nghĩ rằng
khi nào còn quan tâm quá đáng đến các đòi hỏi của thân xác thì khi đó tâm thần
sẽ còn bị xao động và tách rời ra khỏi các mục tiêu mà nó mong cầu. Tình trạng
hoang mang ấy tất sẽ khiến cho tâm thức không sao thực hiện được các chủ đích của
chính nó. Đấy có thể là lý do đã khiến cho Đức Phật quyết định giảm thiểu tối
đa các nhu cầu vật chất: ngủ thật ít, ăn thật ít, giữ tư thế ngồi yên và triền
miên lắng sâu vào thiền định. Thế nhưng cách luyện tập ấy cũng vẫn chưa làm cho
Ngài hài lòng, bởi vì khi các nhu cầu vật chất bị giảm xuống thì sức khoẻ cũng theo
đó mà ngày càng kém đi. Ngài kiệt lực và không còn đứng lên được nữa. Chỉ khi nào
sự sinh tồn được bảo vệ thì khi đó con người mới có thể tìm thấy được sự Thực
Hiện (Giác Ngộ)
và sự toại nguyện vẹn toàn (sự Giải Thoát); đấy là lý do cho thấy tại sao con
người lại cần phải có một sức khoẻ thật tốt. Nếu cố tình cắt giảm bớt đi các
nhu cầu tối thiểu giúp cho sự sống tồn tại, thì tất nhiên sẽ khó lòng mang lại các
điều kiện cần thiết như trên đây. Đức Phật bắt đầu ăn uống trở lại. Thế nhưng ước
nguyện phải đạt được một cái gì đó vẫn còn nguyên trong lòng Ngài. Thật sự ra
thì Ngài cũng không ý thức được rõ rệt điều ước nguyện ấy là gì, Ngài chỉ hiểu
rằng có một niềm khát vọng nào đó trong lòng. Sự suy tư mang tính cách trí thức
tỏ ra quá nông cạn, phép luyện tập bằng cách hành xác cũng chẳng khá hơn. Khát
vọng của Ngài vẫn còn nguyên vẹn, không một chút phôi pha. Ngài cảm thấy một nỗi
lo âu thật sâu kín phát sinh trong lòng mình bởi vì sự biện luận trí thức cũng
như phép luyện tập hành xác cả hai đều không thể giúp cho niềm khát vọng của
Ngài bớt đi sự ray rứt. Ngài cũng chẳng biết phải làm gì nữa.
Không còn một phương cách nào khác để giúp Ngài tìm ra một lối thoát. Ngài bèn quyết
định loại bỏ phương pháp biện luận trí thức vì đấy chỉ là cách bày ra một trò đối
tác giữa chủ thể và đối tượng, và cái trò đối tác đó sẽ chẳng bao giờ có thể
mang lại thể dạng an bình trong tâm thức được. Nếu chúng ta tự ép buộc mình phải
trở thành một con người đạo đức toàn vẹn thì đấy cũng chỉ là cách tạo ra một sự
phân tách: phía bên này là người ước mong đạt được sự vẹn toàn đạo đức (với tư cách là chủ
thể), và phía bên kia là chính sự vẹn toàn ấy (tức là đối tượng). Chính vì thế
nên sự vẹn toàn đó sẽ chẳng bao giờ có thể đạt được, bởi vì chưa kịp đạt được một
cấp bậc nào đó, thì tức khắc lại hiện ra một cấp bậc khác cao hơn, hướng vào một
sự vẹn toàn khác lý tưởng hơn. Do đó chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể trở thành
hoàn hảo được. Khi vẫn còn sự tách rời giữa người tìm kiếm sự vẹn toàn và chính
sự vẹn toàn ấy thì mục đích tối hậu sẽ chẳng bao giờ có thể đạt được. Một khi
mà sự chia đôi Hiện Thực ra thành hai thành phần đối nghịch nhau vẫn chưa loại
bỏ được – tức là tình trạng phân tách giữa chủ thể và đối tượng, một bên là người
suy nghĩ về một thứ gì đó và bên kia là chính thứ ấy, hay nói cách khác là giữa
người nêu lên câu hỏi và chính câu hỏi của người ấy, vẫn còn nguyên - thì khi
đó sự phân tách ấy sẽ vẫn còn tiếp tục ngăn chận sự Thực Hiện (Giác Ngộ).
Tất nhiên là những gì trình
bày trên đây đều dựa vào lý luận. Thế nhưng Đức Phật thì lại không lý luận, Ngài
chỉ đơn giản cảm nhận được một điều gì đó thật ray rứt trong lòng mình mà chính
Ngài cũng không hiểu được bản chất của nó là gì. Ngài cảm thấy vô cùng tuyệt vọng.
Người Thiên Chúa Giáo vẫn thường hay thốt lên: "Khi đã mất hết hy vọng thì
chỉ còn phó mặc cho Trời". Đấy là cách mà họ tách rời Trời ra khỏi con người;
và chính vì thế nên họ đành phải thốt lên những lời tuyệt vọng và chỉ còn biết giao
phó cho Trời. Thế nhưng người Phật Giáo chúng ta thì lại suy ngẫm về mọi sự vật
dưới một khía cạnh khác hơn: chúng ta không hề quan tâm đến thế giới hiện tượng.
Thật vậy Đức Phật không đánh mất thì giờ vào cách suy luận đại loại như thế.
Ngài chỉ cảm thấy một niềm khát vọng muốn đạt được một cái gì đó và niềm khát vọng
ấy luôn ray rứt trong lòng mình. Khi nào cảm tính khát khao ấy hiện ra thì người
ta cũng sẽ vượt thoát khỏi thể dạng tri thức thông thường và vượt lên trên sự tương
đối. Đức Phật dồn tất cả sức chú tâm của mình vào niềm khát vọng ấy đến độ Ngài
đã hòa nhập vào việc tìm hiểu nó và để rồi trở thành chính nó. Ngài không còn
tách rời ra khỏi nó nữa (để trở thành chủ thể và đối tượng) và cũng không
còn cảm thấy khao khát nữa: Ngài đã trở thành MỘT với nó. Những gì Ngài suy tư
đã trở thành chính Ngài, không còn phải là những thứ tư duy của Ngài như trước
đây nữa (Ngài trở
thành chính sự Giác Ngộ và sự Giác Ngộ cũng đã trở thành chính Ngài).
Tất nhiên là Đức Phật không
suy nghĩ theo như cách tôi vừa trình bày trên đây; bởi vì đấy là những gì do tôi
tự bình giải và diễn đạt ra như thế. Khi nào thể dạng (nhất nguyên) ấy hiện ra thì tư duy
cũng sẽ đạt được một sự đồng nhất, một vị thế thăng bằng nào đó, một cách chính
xác hơn là quán nhận được bản thể tự nhiên của thực tại (réalité de nature / reality by nature / từ bản
chất hay là bản tính tự nhiên là như thế). Chữ "thăng bằng"
gián tiếp nói lên sự đa dạng của mọi sự vật và sự hài hòa của chúng (khi nào trông thấy
các hiện tượng chuyển động hài hòa và không xáo trộn thì có thể tạm gọi như là
một sự thăng bằng), thế nhưng đối với trường hợp quán thấy trên đây
của Đức Phật thì chữ "thăng bằng" không mang ý nghĩa như thế, mà đúng
hơn là một thứ bản chất tự tại [của mọi hiện tượng]. Ngoài ra thì chữ "nhận
diện" cũng không phải là một từ thích hợp cho lắm khi muốn nói rằng các vật
thể này được "nhận diện" (indentified / xác định hay được nhận biết...)
khác hơn với các vật thể khác. Theo quan điểm của Đức Phật thì không có một sự
khác biệt nào giữa sự tìm kiếm và đối tượng của sự tìm kiếm. Ngài lắng sâu vào một
thể dạng nhất thể tuyệt đối. (Nêu lên các thuật ngữ như "sự đồng nhất của
tư duy", "sự thanh thoát hoàn toàn của tâm thức" hay thể dạng
"sambhodi" (sự tỉnh giác hay giác
ngộ), thì cũng chỉ là một cách giải thích thuộc lãnh vực tâm lý học mà
thôi - lời giải thích thêm của tác giả). Dù sao thì cũng phải xảy ra một biến cố
gọi là Satori (Ngộ)
thì thể dạng (nhất
thể) ấy mới có thể thực hiện được. Sự "giác ngộ" nhờ đó cũng sẽ hiển lộ - như là một sự chuyển
động đặc biệt gọi là "biến-cố-Ngộ" (satori-event) hay "kinh-nghiệm-cảm-nhận-Ngộ"
(satori-experience),
dù rằng thể dạng nhận biết (identification / nhận diện, xác định...) ấy còn tùy
thuộc vào mỗi người trong chúng ta. Khi biến cố ấy xảy ra thì chúng ta cũng sẽ nhận
biết được rằng mình đang ở trong thể dạng Ngộ ấy. Chính vì thế nên người ta đã thuật
lại rằng khi Đức Phật đạt được kinh nghiệm cảm nhận trên đây thì Ngài cũng đã biểu
lộ sự kinh ngạc của mình khi nhận thấy rằng tất cả mọi sự vật đều hàm chứa bản-thể-của-Phật
- thật sự là tất cả, bởi vì bản thể ấy không nhất thiết chỉ là gia tài riêng của
các chúng sinh có giác cảm mà còn hàm chứa trong đất đá và cả các vật thể khác
trong thế giới, không ngoại trừ bất cứ thứ gì. Tất cả đều là Phật, thế nhưng chỉ
vì các vật thể không tự ý thức được cái bản thể đó của chúng mà thôi. Đấy chẳng
qua chỉ vì chúng không thể tạo ra được "biến-cố-Ngộ" giúp chúng ý thức
được sự kiện đó (chỉ
có con người là có thể bừng tỉnh nhờ vào "biến-cố-Ngộ" mang lại từ sự
tu tập của chính mình để nhận ra rằng kẻ hung ác, người hiền lành, kẻ tham lam,
người rộng lượng, kẻ xấu xí, người xinh đẹp... tất cả đều là chính mình; xúc cảm
hay tư duy trong tâm thức cũng là chính mình; đất đá, cây cỏ, một áng mây lửng
lơ trên bầu trời, một làn gió thoảng xuyên qua cành lá hay một âm thanh vang vọng
trong không gian cũng đều là những biểu hiện của chính mình. Sự bừng tỉnh đó sẽ
giúp chúng ta thực hiện được "thể-dạng-Ngộ" và quán thấy được bản thể
của chư Phật và của cả chính mình).
Có một người đệ tử hỏi
Thầy mình như sau: "Thế con có hàm
chứa bản-thể-của-Phật hay không?". Vị Thầy tức khắc trả lời ngay: "Không, mi không hề hàm chứa bản-thể-của-Phật".
Người đệ tử hỏi vặn lại: "Con nghe
nói rằng tất cả mọi thứ đều hàm chứa bản-thể-của-Phật kia mà... Tại sao con lại
không có?" Vị Thầy lại trả lời tiếp như sau: "Côn trùng, súc vật, đất đá..., tất cả đều hàm chứa bản-thể-của-Phật
- chỉ trừ có mi là không có". Người đệ tử tỏ vẻ lo lâu: "Thế thì tại sao con lại không có?"
Vị Thầy bèn giải thích như sau: "Chỉ
vì mi đã nêu lên câu hỏi" (nêu lên thắc mắc trong đầu là cách tự tách rời mình ra khỏi
sự thắc mắc của chính mình, tức là tự tạo ra chủ thể và đối tượng, nói cách
khác là tự tách rời mình ra khỏi hiện thực). Thắc mắc của người đệ tử
đã cho thấy rằng người ấy không thấu triệt được một cách thật ý thức rằng chính
mình đang hàm chứa sẵn Bản-thể-của-Phật (vì cứ tưởng rằng bản-thể-của-Phật là một thứ gì đó khác với
mình). Sự ý thức hay giác ngộ ấy là một sự kiện vô cùng quan trọng,
và nó cũng chỉ có thể xảy đến với con người mà thôi. Vì thế chúng ta cũng có thể
bảo rằng tất cả mọi sự vật, kể cả vật chất, đều hàm chứa bản-thể-của-Phật, thế
nhưng cần phải là một con người mới cảm nhận được cái bản thể ấy.
Vài lời ghi chú của người dịch
Với một văn phong giản
dị, ngắn gọn và quen thuộc, D.T. Suzuki đã tóm lược thật khúc triết và khéo léo
ý nghĩa của một khái niệm có thể nói là chủ yếu và then chốt nhất của Đại Thừa Phật
Giáo, nhất là đối với Thiền Tông và Kim Cương Thừa. Nếu cho rằng Bản-thể-của-Phật
hiện hữu nơi tất cả chúng sinh và mọi vật thể trong thế giới thì đấy có phải là
một sự nghịch lý đối với một khái niệm vô cùng quan trọng khác của Đạo Pháp là
"tánh không tuyệt đối và tối thượng" của tất cả mọi hiện tượng hay không?
Dù sao thì thắc mắc này cũng có vẻ chính đáng. Vậy chúng ta thử tìm hiểu xem
hai khái niệm "tánh không" và "Bản-thể-của-Phật" có mâu thuẫn
với nhau hay không hay đấy chỉ là một sự "bổ túc" cho nhau?
Quá trình hình
thành khái niệm về Bản-thể-của-Phật
Đức Phật trực tiếp nêu
lên tánh không trong nhiều bài giảng và cho biết rằng Ngài luôn thường trú
trong cõi tánh không tối thượng và tuyệt đối ấy. Thế nhưng không thấy có một bài
kinh "nguyên thủy" bằng tiếng Pa-li nào trực tiếp nêu lên khái niệm về
Bản-thể-của-Phật một cách dứt khoát và rõ ràng. Chỉ thấy Tăng-nhất Bộ Kinh (Anguttara
Nikaya) và một học phái Phật Giáo xưa đã mai một là Đại-chúng bộ
(Mahasanghika) đưa ra một vài gợi ý khá mơ hồ về Phật-tính mà thôi. Tóm lại khái
niệm về Bản-thể-của-Phật hay Phật Tính nhất thiết chỉ là một khái niệm đặc thù và
cá biệt của Đại Thừa nói chung và đặc biệt đã giữ một vai trò thật chủ yếu trong
Thiền Học và Kim Cương Thừa.
Khái niệm về Bản-thể-của-Phật
chỉ bắt đầu được nêu lên thật rõ ràng từ khoảng năm 200 sau Tây Lịch trở về sau
này, và đã được đề cập nhiều nhất trong các bộ kinh như Đại phương đẳng Như Lai Tạng kinh (Tathagatagarbha-sutra, khoảng năm 200 sau Tây Lịch), Thắng man Kinh (Srimaladevisimhanada-sutra, thế kỷ thứ III), Đại bát Niết Bàn Kinh (Mahaparinirvana-sutra,
thế kỷ thứ III), Hoa Nghiêm kinh (Avatamsaka-sutra, thế kỷ thứ III), Nhập Lăng Già Kinh (Lankavatara-sutra, thế kỷ thứ III), v.v... Nói chung thì số
kinh sách vô cùng phong phú này đã đánh dấu thời kỳ trưởng thành của Đại Thừa Phật
Giáo vào các thế kỷ thứ III và IV, sau khi đã được hình thành bốn trăm năm về
trước tức vào thế kỷ thứ I trước Tây Lịch.
Có thể nói rằng trong
số các kinh sách trên đây thì Nhập Lăng
Già Kinh (Avatamsaka-sutra) là bộ
kinh giải thích khái niệm về Bản-thể-của-Phật sâu sắc và khúc triết nhất. Kinh
này được xem là do chính Đức Phật Thuyết giảng thế nhưng thật ra nếu căn cứ vào
các dữ kiện lịch sử thì chỉ được trước tác vào khoảng thế kỷ thứ III. Cũng xin
nhắc thêm là Bồ-đề Đạt-Ma đã dựa vào kinh này làm nền tảng để sáng lập ra một học
phái mới là Thiền Học tại Trung
Qu ốc vào khoảng thế kỷ thứ VI.
Bước sang thế kỷ thứ V
người ta lại thấy xuất hiện thêm một tập luận khá quan trọng nữa là tập Bảo tính luận (Uttaratantra-sastra còn gọi là
Ratnagotravibhaga). Tập luận này đã triển khai khái niệm về Bản-thể-của-Phật
thật sâu rộng với nhiều khía cạnh triết học vô cùng sâu sắc và khúc triết. Chính
tập luận này đã giữ một vai trò then chốt đưa đến sự hình thành của Kim Cương
Thừa vào khoảng cuối thế kỷ thứ V hay đầu thế kỷ thứ VI.
Trên đây là một vài
nét thật khái quát đánh dấu một giai đoạn cực thịnh của Phật Giáo nói chung và của
Đại Thừa nói riêng suốt trong nhiều trăm năm, kể từ thế kỷ thứ I trước Tây Lịch
cho đến các thế kỷ thứ VII và VIII. Trong giai đoạn này nhiều học phái lớn tuần
tự được hình thành như Trung Đ ạo,
Duy Thức Học, Kim Cương Thừa và Thiền Học. Sau giai đoạn hưng thịnh này và cho đến
nay không còn thấy một học phái quan trọng nào khác được thành lập thêm. Trên
phương diện giáo lý thì bốn học phái lớn trên đây đã đưa ra nhiều cách diễn đạt
mới về một số khái niệm trong giáo huấn của Đức Phật, hoặc ít ra thì trên
phương diện thực hành cũng đã thiết lập được nhiều phép tu tập đặc thù và
chuyên biệt, nhất là đối với Kim Cương Thừa và Thiền Học.
Trong số các đường hướng
diễn đạt mới về giáo huấn của Đức Phật, người ta nhận thấy có hai khuynh hướng nổi
bật nhất: trước hết là triển khai sâu rộng khái niệm về tánh không và đưa khái
niệm này vào vị trí trung tâm của Đạo Pháp, và sau đó là sáng tạo ra thêm một
khái niệm mới là Bản-thể-của-Phật (Tathagatagarbha). Vậy Bản-thể-của-Phật, ngoài
các cách giải thích của D.T. Suzuki trong bài viết trên đây, còn mang thêm các
ý nghĩa hay các cách giải thích nào khác nữa hay chăng?
Định nghĩa về Bản-thể-của-Phật
Trong Đại phương đẳng Như Lai tạng Kinh (Tathagatagarbha-sutra) có một câu như
sau: "Trong tất cả chúng sinh đều ẩn
chứa tinh anh của Như Lai: tương tự như trong lòng của một người mẹ nghèo nàn ẩn
dấu một đứa con đáng yêu, như vàng ròng dấu kín trong một nơi ô uế...".
Đại bát Niết-bàn Kinh cũng nêu lên
như sau: "Tương tự như bơ hòa lẫn
trong sữa, Phật-tính thấm nhuần trong tất cả chúng sinh".
Thế nhưng Bản-thể-của-Phật
- còn được gọi là Phật-tính - không những chỉ được xem như một kho báu vô cùng
quý giá mà còn là "nguyên nhân" hay một "phương tiện" giúp
cho tất cả chúng sinh trở thành Phật. Nói một cách khác Bản-thể-của-Phật còn biểu
trưng cho một tiềm năng tự tại trong tâm thức của mỗi cá thể con người giúp họ thực
hiện được sự Giác Ngộ. Tiềm năng ấy chỉ tạm thời bị che khuất và bị bóp ngạt bởi
vô minh mà thôi. Chính vì thế nên Bản-thể-của-Phật hay Phật-tính, hay Như Lai Tạng
(Tathagatagarbha) còn được gọi là "hạt giống", "nguyên nhân"
hay "chủng-tử-của-Phật".
Ngoài ra kinh sách cũng
thường sử dụng chữ "dhatu" (có
nghĩa là giới, thành phần, lãnh vực, thể dạng...) ghép thêm vào chữ "Tathagata" (Như Lai) để tạo
ra từ ghép "Tathagatadhatu", có nghĩa là "Thể-dạng-Như-Lai", nhằm để chỉ định Bản-thể-của-Phật. Thuật
ngữ này thật ra mang hai thể dạng hay hai bản sắc khác nhau:
- thể dạng thứ nhất là
sattvadhatu hay "thể dạng chúng
sinh" (chữ sattva có nghĩa là
chúng sinh: être / being), tức là thể dạng chung của tất cả các chúng sinh
"chưa giác ngộ".
- thể dạng thứ hai là Dharmadhatu hay "thể dạng Đạo
Pháp" còn gọi là "Pháp Giới" (cảnh giới của Đạo Pháp), tức là thể
dạng giác ngộ của chư Phật, biểu trưng bởi "Hiện Thực tuyệt đối".
Hơn nữa người ta cũng
còn thấy kinh sách gọi Bản-thể-của-Phật là Dharmakaya
tức là "Pháp Thân" hay là "Thân Đạo Pháp", tức là thể dạng
không sinh, không diệt, không hình sắc của chư Phật. Pháp Thân còn được xem là
thể tính của hiện thực hiện hữu tự tại nơi chư Phật và tất cả chúng sinh. Tóm lại
chữ Pháp Thân được xem đồng nghĩa với các chữ Chân Như, Hiện Thực hay sự Vận Hành
của toàn thể Vũ Trụ, nói cách khác là trong mỗi chúng sinh đều hàm chứa sẵn Chân
Như hay Hiện Thực để giúp họ cùng với chư Phật vận hành chung trong vũ trụ. Tuy
nhiên nếu các chúng sinh nào chưa đạt được giác ngộ thì sẽ không thể nào nhận
thấy được phẩm tính ấy của chính mình để hòa nhập với sự vận hành đó.
Ngoài ra Kim Cương Thừa
còn xem Bản-thể-của-Phật là một sự "viên mãn tuyệt đối" và gọi đấy là
"ánh sáng trong suốt" biểu trưng bởi một vị thần linh nhằm ứng dụng
vào việc luyện tập. Đối với riêng học phái Đại Cứu Cánh (Dzongchen) thì Bản-thể-của-Phật
chính là "bản thể đích thật và tự tại của tâm thức" và được gọi là rigpa. Chữ Tây Tạng rigpa có nghĩa từ chương là một "thể dạng tự nhiên hay tự tại",
và trong trường hợp nếu được dùng để chỉ định Bản-thể-của-Phật thì chữ này sẽ mang ý nghĩa là "bản chất tự
nhiên của sự hiểu biết", tương tự như "hơi nóng là bản chất tự nhiên của
lửa" hay "sự ẩm ướt là bản chất tự nhiên của nước". Do đó chữ rigpa cũng được xem như tương đương với
các chữ Phạn vidya (sự quán thấy) hay
prajna (trí tuệ) là các chữ mang ý nghĩa
đối nghịch lại với chữ avidya tức là vô
minh, để nói lên bản chất tự nhiên của sự hiểu biết. Đối với học phái Shentong
- một trong hai học phái Trung
Quán của Tây Tạng - thì Phật-tính hay Bản-thể-của-Phật còn được
gọi là Buddhajana tức là Trí-Tuệ-của-Phật. Nói chung các thuật ngữ
Tây Tạng dùng để chỉ định Bản-thể-của-Phật rất phong phú và mang nhiều ý nghĩa
rõ rệt.
Tóm lại Đại Thừa Phật
Giáo qua hàng nhiều trăm năm đã cố gắng phân tích, tìm hiểu và ứng dụng "một
điều gì đó" vừa trừu tượng, bao quát lại vừa sâu sắc và rất khó để diễn đạt
gọi là Bản-thể-của Phật. Các vị đại sư trong quá khứ đã kế tiếp nhau sáng tạo
ra vô số các thuật ngữ quy ước cũng như đã bày ra thật nhiều cách gợi ý nhằm
giúp chúng ta nắm bắt một điều gì đó vô cùng "bí ẩn" gọi là Bản-thể-của-Phật.
Cái bản thể ấy sở dĩ đã tỏ ra bí ẩn chỉ vì nó không phải là một thứ gì khác thuộc
bên ngoài được đem áp đặt thêm cho hiện thực, mà chính là bản chất tự tại bên
trong mọi hiện tượng, từ một hạt bụi cho đến cả vũ trụ, kể cả tư duy cũng như xúc
cảm trong tâm thức của mỗi con người. Vậy cái bản thể tự tại và cùng khắp ấy của
mọi hiện tượng là gì?
Sự cụ thể hóa tánh
không
Sau bài thuyết giảng
thứ nhất là Bốn Sự Thật Cao Quý
(Tứ Diệu Đế), thì ngay sau đó trong bài thuyết giảng thứ hai Đức Phật đã nêu
lên khái niệm "không có cái tôi" hay "giáo lý Vô Ngã". Trong
suốt bốn mươi lăm năm thuyết giảng Đức Phật tiếp tục triển khai nền móng đó của
Đạo Pháp với các cấp bậc khác nhau, và đồng thời Ngài cũng đã thường xuyên giải
thích giáo lý "Vô Ngã" bằng mọi cách và dưới nhiều khía cạnh khác
nhau. Thế nhưng khái niệm về tánh không thì chỉ được Đức Phật trực tiếp thuyết
giảng cho một số đệ tử thật thân cận, chẳng hạn như Đức Phật đã giảng riêng cho
A-nan-đà hai bài Kinh ngắn và Kinh dài về Tánh Không (Culasunnata-sutta và Mahasunnata-sutta - Trung A Hàm 121, 122).
Ngoài ra một đôi lần Ngài cũng có nêu lên cho hai người đệ tử là Xá Lợi Phất và
A-nan-đà biết rằng Ngài luôn thường trú trong cõi tánh không tuyệt đối và tối
thượng ấy. Trong bài Kinh ngắn về Tánh Không
có một đoạn như sau:
- "Bạch Thế Tôn, có lần Ngài ngụ ở thị trấn Nagaraka thuộc xứ của
dân Sakka. Vào dịp ấy và trước mặt Ngài tôi đã được nghe chính Ngài nói lên như
thế này: 'Này A-nan-đà, Ta luôn an trú trong tánh không, và đang trong lúc này
thì Ta lại càng an trú sâu xa hơn nữa'. Bạch Thế Tôn, tôi nghĩ rằng tôi đã nghe
đúng như thế, và hiểu đúng như thế.
Đấng Thế Tôn đáp lại như sau:
- "Quả đúng như thế, này A-nan-đà, những gì ngươi đã
được nghe thấy đúng là như thế; những gì ngươi hiểu được cũng đúng là như thế.
Đang trong lúc này, và cũng tương tự như trước đây Ta từng an trú trong tánh
không thì nay Ta lại càng an trú sâu xa hơn nữa trong tánh không. Cũng chẳng
khác gì như gian tịnh xá này do Migâra-Matâ xây cất hoàn toàn trống không,
không có một con voi nào, không có một con bò cái nào, không có một con ngựa đực
nào, không có một con ngựa cái nào, không có vàng cũng chẳng có bạc, hoàn toàn
trống không, chẳng có đám đàn ông hay đàn bà nào tụ tập. Gian tịnh xá chỉ duy
nhất không-trống-không về cái đặc tính độc nhất [của nó] thiết lập bởi tập thể Tăng Đoàn. "
Đoạn trích dẫn trên
đây cho thấy là A-nan-đà vẫn áy náy không biết những gì mình được nghe có đúng
như thế hay không. Áy náy tức là còn có một cái gì đó mà mình không hoặc chưa
hiểu hết. Tuy nhiên A-nan-đà vẫn cứ thuật lại sự thắc mắc của mình vào dịp kết
tập Đạo Pháp lần thứ nhất được tổ chức một
năm sau khi Đức Phật tịch diệt. Sự thắc mắc ấy đã được truyền khẩu gần bốn trăm
năm trước khi được ghi lại bằng chữ viết trên những tờ lá bối vào thế kỷ thứ I
trước Tây lịch ở Tích Lan.
Có thể A-nan-đà cũng
muốn thấu hiểu tường tận hơn ý nghĩa của tánh không là gì nên mới nêu lên với Đức
Phật thắc mắc của mình như trên đây, thế nhưng Đức Phật chỉ nói với A-nan-đà rằng
Ngài luôn thường trú trong cái tánh không ấy và cho A-nan-đà biết là sự thường
trú ấy cũng tương tự như cảm nhận được gian tịnh xá trống không, ngôi làng trống
không, khu rừng trống không, không gian trống không, tri thức trống không, hư
vô trống không, đấy là một sự cảm-nhận không-cảm-nhận, một sự cảm-nhận không hướng
vào một chủ đích hay đối tượng nào cả. Đức Phật không hề "mổ xẻ" cái
tánh không đó trên mặt trí thức để giải thích cho A-nan-đà mà chỉ cho biết đấy
là một thể dạng hay một kinh nghiệm cảm nhận mà thôi. Nếu nói theo D.T. Suzuki
thì sự "cảm nhận phi-đối-tượng" ấy cho thấy Đức Phật đã hội nhập và đã
trở thành MỘT với cái tri thức trống không tuyệt đối và tối thượng bên trong của
chính Ngài.
Thế nhưng nếu thuyết
phục một người tu tập bình dị như chúng ta hãy cứ hội nhập với cái tri thức trống
không của chính mình và để trở thành MỘT với nó thì quả rất khó, bởi vì nếu không
hiểu được tánh không là một phương tiện mang lại sự giải thoát mà chỉ nhìn thấy
khía cạnh tiêu cực tức là sự trống không của nó, thì nhất định sẽ khiến cho chúng
ta khó tránh khỏi phải sợ hãi. Dù cho không sợ hãi đi nữa thì chúng ta cũng có
thể sẽ cảm thấy hoang mang và lo lắng, bởi vì chúng ta không đủ khả năng để cảm
nhận được sự trống không tự tại ấy trong tâm thức của chính mình, mà lại xem nó
như là một đối tượng bên ngoài để hội nhập vào đấy, tương tự như phải nhảy vào
một cái hố trống không và sâu thẳm. Có thể cũng vì lý do đó mà các vị đại sư
trong quá khứ thuộc các tông phái và học phái khác nhau đã cố gắng tìm đủ mọi
cách để lấp đầy cái hố ấy, nói cách khác là cụ thể hóa "điều bí ẩn" ấy,
tức là cái MỘT trong bài viết của D.T. Suzuki hay cái "tánh không tuyệt đối
và tối thượng" nêu lên trong bài Kinh
ngắn về Tánh Không, nhằm để biến nó trở thành một cái gì đó mang tính cách "tích
cực" hơn. Nói một cách khác là khoác lên cho tánh không một chiếc áo mới dễ
nhận thấy và nắm bắt hơn cho một số người tu tập. Chiếc áo ấy có thể mang tên
là Bản-thể-của-Phật, Như Lai Tạng, Phật Tính, Chân Như, Hiện Thức, v.v... Triết
học Tây Phương gọi phương pháp này là cách "vật thể hóa"
(chosification, reification, objectification...) các khái niệm trừu tượng.
Sau đây là một thí dụ khác
về cách "vật thể hóa" khái niệm Bản-thể-của-Phật, tìm thấy trong Như Lai Tạng Kinh (Tathagatagharbha-sutra) và trong tập Bảo Tính Luận (Uttaratantra-sastra còn gọi là Ratnagotravibhaga) là
hai trong số các văn bản nòng cốt đưa đến sự hình thành của Kim Cương Thừa, đấy
là chín phương cách so sánh Bản-thể-của-Phật nhằm biến nó trở thành cụ thể hơn:
Bản-thể-của-Phật (Tathagatagarbha)
tương tự như:
1- Một pho tượng Phật
bên trong một đoá hoa sen héo úa
2- Mật ngọt giữa một bầy
ong
3- Một hạt giống bên
trong chiếc vỏ cứng
4- Vàng ròng dấu trong
đống rác
5- Một kho tàng chôn
kín dưới mặt đất
6- Một
mầm cây bên trong hoa quả
7- Một pho tượng Phật trong đống giẻ rách
8- Một vị lãnh đạo
tương lai trong bụng của một phụ nữ xấu xí và nghèo nàn.
9- Một pho tượng bằng
kim loại quý bên trong một một khối đất sét.
Pho tượng Phật, mật ngọt
hay vàng ròng... chính là cái "tánh không tuyệt đối và tối thượng " nằm
bên trong mọi hiện tượng hư ảo và vô thường trong thế giới, từ một hạt bụi cho
đến toàn thể vũ trụ.
Thật vậy nếu bảo một
người nào đó hãy chuyên cần tu tập để đạt được thể dạng "tánh không tuyệt
đối và tối thượng" hay "tánh không của tánh không" thì nhất định
sẽ rất khó để chinh phục họ bởi vì có thể họ sẽ không hiểu đấy là gì. Thế nhưng
nếu bảo họ là sẽ đạt được Bản-thể-của-Phật hay Phật Tính hầu giúp họ trở thành
Phật thì may ra có thể thuyết phục họ dễ dàng hơn.
Bures-Sur-Yvette,11.12.12
Hoang Phong chuyển ngữ
Cháu Don Ngô (Ngô Đình Duy) xin cám ơn chú Hoang Phong đã gởi cho cháu bài dịch và những chú giải và khai triển của chú về tác phẩm của Thiền Sư Suzuki. Cháu xin post lên đây để chia sẻ với các thân hữu muốn tu tập về Phật Pháp.
ReplyDeleteKính chúc chú luôn luôn an-khang & trường thọ.
Kính chào,
Cháu, DN
chào chú Hoang Phong!
ReplyDeletecuốn này có xuất bản ở Việt Nam không ạ
Thân chào chị Minh Hạnh,
DeleteChú Hoang Phong Nguyễn Đức Tiến hiện đang về hưu sống bên Pháp. Chú dành nhiều thì giờ để chuyển ngữ các tuyệt phẩm về Phật Giáo. Duy nhận được bản chuyển ngữ của chú qua một thân hữu là Ngọc Phu. Chị có thể vào Google Việt Nam tìm xem sách cho bán tại VN không nhé. Riêng mua tại Mỹ thì có, qua Amazon.com.
Thân chào,
Ngô Đình Duy
Xin cảm ơn tác giả và bạn Duy,
ReplyDeletenhân đây, xin gởi tặng bạn Duy bài thơ sau :
Như Lai Tạng tỏ, Tánh bình đẳng
Pháp Thân trùm khắp, chẳng vương mang
Quân Minh chung trọn, suốt lộ trình
Tận dùng Pháp Giới, thấu dọc ngang
Của Chân Như dụng, hoàn hoa giác
Phật Tánh viên minh, tướng chẳng mang
Nhất Tâm vâng kính, đắc chân truyền
Khải hoàn Bảy Báu, trọn an khang
MH (Minh Hạnh - TMT)
Cõi tạm
ReplyDeleteỪ thôi kệ cõi đời là tạm
Kiếp sống phù du chẳng để say
Thánh thoát đưa tâm bình lặng mãi
Không màng quá khứ với tương lai
Trôi theo cuộc sống đang thanh thản
Được mất gì không trọn kiếp suông
Biết thế mà sao tâm vấn đục
Mơ hồ sáu nẻo cõi luân thường
Vầng trăng thưởng nguyệt là hư ảo
Ánh sáng siêu huyền cảnh thức tâm
Mặt nước hồ in trăng lóng lánh
Trăng kia chỉ giả dưới hồ tâm
Đi tìm bóng giả trong vô vọng
Cuộc sống như là giấc mộng xong
Cứ phải tìm hoài mà chẳng được
Loay quay hết kiếp trở về không …
NTKH CT5
Đại phương tiện !
ReplyDeleteTất cả là thực nơi sống tạm
Chấp nhận quay cuồng, khó thoát say
Yên yên tâm tưởng chừng như lặng
Mơ hồ quá khư với tương lai
Pháp giới yên yên ngỡ thanh thản
Lặng lẽ thanh bình tưởng kiếp suông
Bởi chưa tận tường, tâm vấn đục
Tự chủ không xong, ắt luân thường
Nhật Nguyệt như thực, không hư ảo
Vô minh tối sáng, vọng động tâm
Tâm trong, gương tỏ ánh lóng lánh
Chứng thị tánh tướng ! khởi tại tâm
Chân như thực, nào đâu đọng vọng ?
Quân minh tánh tướng, từng kiếp xong
Chí dũng, kiên trì tứ nhiếp được
Tỏ tường tận thấu Có cùng Không !
MH-TMT